Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Đức (1909-1999) – tôn hiệu của Đại giới đàn do Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM tổ chức năm nay là một trong những vị giáo phẩm Phật giáo ở miền Nam, Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
Lúc còn trụ thế, ngài luôn thể hiện tinh thần tinh tấn tu bồi đức hạnh và hướng niềm tin mãnh liệt về Đức Phật không biết mệt mỏi. Đời sống tu tập của ngài rất nghiêm túc, rất xứng đáng làm gương cho người đời sau. Sau đây là hành trạng của ngài, Giác Ngộ trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Đức, húy Hồng Phước, thế danh Nguyễn Văn Hai, thuộc dòng Lâm Tế gia phổ đời thứ 40.
Ngài sinh năm 1909, tại làng Linh Trung, Thủ Đức. Ngài là con thứ ba trong một gia đình năm anh chị em. Xuất thân trong một gia đình thấm nhuần giáo lý Phật Đà, lại có nhân duyên căn lành đối với Phật pháp đã gieo trồng từ nhiều đời, nên ngài sớm xuất gia thế độ từ năm 11 tuổi (1921) với Tổ Như Bằng, trụ trì chùa Huê Nghiêm và chùa Sắc tứ Từ Ân, Chợ Lớn. Năm 18 tuổi (1928), ngài thọ giới Sa-di tại chùa Giác Hoàng, Bà Điểm và được Tổ cho phép cầu pháp với Tổ Đạt Thanh ở chùa Long Quang, Bà Điểm.
Tổ Long Quang nhận thấy đức hạnh của ngài sau này có thể “phò trì Phật pháp, tiếp dẫn hậu lai”, nên đã tiếp nhận và hết lòng dạy dỗ. Ngài cũng đáp lại công ơn giáo dưỡng của Tổ bằng cách quyết chí tu học, dũng mãnh phát nguyện nhập thất 5 năm liên tục để hành trì kinh Pháp hoa.
Đến năm 23 tuổi, ngài được Tổ cho vào Đại giới đàn chùa Bảo An ở Bến Gỗ, Biên Hòa, thọ giới Cụ túc. Sau khi thọ giới Cụ túc, trên bước đường tìm cầu tham học các bậc cao tăng thạc đức, ngài lại có phước duyên được Tổ Huệ Đăng húy Thanh Kế trụ trì chùa Thiên Thai, Bà Rịa truyền cho pháp lạy Ngũ hối và trì chú Chuẩn đề.
Đầu mùa xuân 1935, lúc đó ngài vừa 24 tuổi đời, ngài được thỉnh về trụ trì chùa Từ Ân, xã Phước Long, huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa. Nơi đây ngài được dân chúng địa phương quý mến, khâm phục, quy ngưỡng tài chẩn mạch, hốt thuốc, chữa trị lành bệnh cho nhiều người trong suốt 10 năm.
Năm 1945, cuộc Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, với truyền thống yêu nước, ngài tham gia phong trào cứu quốc chống thực dân Pháp với chức vụ Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc huyện Long Thành. Bấy giờ ngài trụ trì chùa Bửu Thiền ở núi Thị Vải, nơi đây cũng là cơ sở hoạt động tiếp tế nuôi dưỡng các anh em cách mạng.
Đến năm 1953, nhận lời cần cầu của các vị đạo tâm, ngài nhận trách nhiệm trụ trì chùa Long Nhiễu, Thủ Đức. Sau 5 năm giáo hóa ở trụ xứ Long Nhiễu, trước sự thiết tha cầu khẩn của Phật tử, Ban hộ trì Tam bảo tổ đình Huê Nghiêm, ngài lại trở về trụ tích ngôi tổ đình Huê Nghiêm, nơi ghi dấu bước chân đầu tiên xuất gia cầu đạo của ngài.
Với đạo phong đạo hạnh của một bậc chân tu tỏa rộng đến độ cảm hóa các Tăng Ni Phật tử xa gần, nên mặc dù ngài trở về dừng chân hành đạo ở tổ đình Huê Nghiêm sau hơn 20 năm đi tiếp độ khắp nơi, hàng Phật tử vẫn thiết tha hiến cúng cho Hòa thượng ngôi chùa Bửu Lộc và chùa Phước Hưng ở Long Thành.
Năm 1972, ngài lại cho xây ngôi nhà hai tầng khang trang bên cạnh chùa để làm trường sơ trung đẳng Phật học mang tên Phật học viện Huệ Lưu. Trong suốt 3 năm 1970 – 1971 – 1972, Hòa thượng được chư tôn giáo phẩm cung thỉnh vào hàng Chứng minh Đạo sư và đương vi Hòa thượng truyền giới tại nhiều giới đàn.
Năm 1975, tiếp nối công lao của Thầy Tổ, ngài đã trùng tu toàn bộ tổ đình Huê Nghiêm thành một ngôi đại già-lam khang trang, thanh tịnh, khả dĩ tiêu biểu cho tổ đình đã có quá trình lịch sử lâu dài trên 2 thế kỷ và cũng là nơi xuất thân của các vị Tổ từng làm rạng danh Phật giáo như Tổ Huệ Lưu..
Sau ngày Tổ quốc thống nhất, ngài làm cố vấn Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước huyện Thủ Đức. Đến giai đoạn chuyển sang hình thành Ban Đại diện Phật giáo huyện Thủ Đức, ngài vẫn đóng vai trò cố vấn trong hàng chứng minh cho Ban Đại diện.
Đến tháng 10-1987, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ II, ngài được suy tôn là Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
Mùa Phật đản PL.2532 (1988), ngài được cung thỉnh làm Tôn chứng trong Hội đồng Thập sư ở Đại giới đàn Thiện Hoa do Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh tổ chức.
Bước chân vào cuộc hành trình hoằng dương Phật pháp từ năm 24 tuổi cho đến cuối cuộc đời, nơi ngài luôn tỏa sáng hình ảnh một vị chân tu giải thoát đầy đủ phẩm hạnh cao quý, là tấm gương sáng cho hàng Tăng Ni soi chung và cũng là bậc mô phạm cho hàng Phật tử kính ngưỡng noi theo tu học.
Với đức tính hiền hòa, giản dị khiêm cung luôn luôn thể hiện trên gương mặt cởi mở, vui tươi đã sưởi ấm tâm hồn những người được phước duyên tiếp cận với ngài. Trang nghiêm thân tâm bằng lòng từ bao dung, hòa ái, hoan hỷ, nên ít ai thấy được trên gương mặt ngài lộ vẻ bất bình và cũng ít ai nghe được lời bực dọc của ngài.
Nương vào sự un đúc dạy dỗ và đức hạnh của ngài, các đệ tử tiếp nối sự nghiệp cao quý của ngài gồm những vị hữu dụng cho Giáo hội hiện tại, trong đó có Hòa thượng Thích Trí Quảng là Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN, Viện trưởng Học viện Phật giáo VN tại TP.Hồ Chí Minh, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP. Hồ Chí Minh.
Một điểm nổi bật khác trong nếp sống tu hành của ngài thể hiện tinh thần tinh tấn tu bồi đức hạnh và hướng niềm tin mãnh liệt về Đức Phật không biết mệt mỏi đến độ dù cao tuổi sức yếu, mỗi ngày ngài vẫn chuyên trì kinh Pháp hoa và lạy Sám Ngũ hối.
Cơ duyên hành đạo ở Ta-bà đã viên mãn, ngài thu thần nhập diệt lúc 18 giờ 15 phút, ngày 8-3-1999 (nhằm ngày 21-1-Kỷ Mão), trụ thế 91 năm, 69 hạ lạp.
(Theo tài liệu do Ban Tổ chức Đại giới đàn Trí Đức PL.2559 – DL.2015 cung cấp)